Nho

Nho

Nho (Vitis vinifera L.) có nguồn gốc từ khu vực Địa Trung Hải, Trung Âu và Tây Nam Á. Nó là dạng cây leo, rụng lá. Lá có hình trái tim và có cạnh răng cưa thô. Quả có thể ăn tươi, dùng để sản xuất rượu vang hay nho khô. Lá nho được sử dụng trong ẩm thực của nhiều nền văn hóa. Nho tươi cũng có thể được chế biến thành nước trái cây được lên men để làm rượu và giấm. Các giống nho tạo thành nền tảng của phần lớn các loại rượu vang được sản xuất trên khắp thế giới.

Tất cả các loại rượu vang quen thuộc đều từ nho ra, được trồng ở mọi châu lục, ở tất cả các vùng rượu vang lớn trên thế giới, ngoại trừ Nam Cực.

 

Hoa, lá, gân và quả Nho có chứa Tanin, Axit tartaric, Axit malic, Axit succinic và sáp, đường và các chất khoáng, đã được sử dụng cho mục đích y học và điều trị.

Lá dùng tươi hoặc phơi khô chế biến thành trà được coi như một vị thuốc chữa thấp khớp, thống phong, nôn mửa, khạc ra máu. Ngoài ra, nước sắc từ lá được dùng làm nước tắm trị nứt nẻ tay chân do lạnh. Lá tươi hái về, giã nát đắp ngoài làm hạ nhiệt ở mắt, đầu và bụng. Chất dầu của lá nho (từ giống đỏ) giúp giải quyết các vấn đề về tuần hoàn, giãn tĩnh mạch và nứt mao mạch.

Quả Nho chưa chín nghiền nát, dùng để chườm, loại bỏ nhiệt ở mắt, đầu và dạ dày.

Nho được khuyên dùng để làm sạch máu và kích thích chức năng của ruột và thận.

Nước ép Nho tươi hoặc thanh trùng không chỉ giúp cải thiện cảm giác ngon miệng và chức năng của các cơ quan tiêu hóa mà còn hỗ trợ đào thải tất cả các chất độc hại. Trị liệu bằng nho tươi hoặc nước ép nho điều trị bệnh viêm ruột và tiêu chảy mãn tính. Ngoài ra, liệu pháp với nước ép nho, áp dụng một hoặc hai lần một năm, ngăn ngừa sự hình thành sỏi mật, sỏi thận và sỏi bàng quang. Nó được khuyên dùng mạnh mẽ cho chứng viêm thận, suy yếu các tuyến và khí phế thũng.

Nho khô là một lựa chọn tốt cho chế độ ăn kiêng táo bón. 

Dầu từ hạt Nho có thể dùng làm dầu ăn, nhất là đối với những bệnh nhân không ăn được mỡ động vật.

← Bài trước Bài sau →